Nhạc cụ dân tộc



ĐÀN SẾN
Đàn Sến/Mai Hoa là nhạc khí dây gảy của người Việt/Kinh. Khả năng diễn tấu của đàn Sến/Mai Hoa rất phong phú, nó thường được dùng để độc tấu, hòa tấu trong dàn nhạc tài tử cải lương rất phổ biến ở miền Nam.
Hộp đàn có hình dáng hoa mai/hoa đào sáu cánh hoặc hình lục giác, đường kính khoảng 28 cm.

Mặt đàn và đáy đàn làm bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc. Thành đàn dày khoảng 6 cm, làm bằng gỗ cứng. Cần đàn dài khoảng 70 cm, trên mặt đàn có 17 phím bấm. Phím đàn được gắn dựa theo thang âm 7 cung chia đều. Đàn có 3 trục gỗ nhưng chỉ dùng 2 trục để lên dây còn 1 để trang trí.
Đàn có 2 dây bằng tơ se, được lên cách nhau một quãng 4 hoặc quãng 5: Fa – Do1 hoặc Sol – Do1.
Đàn Sến luôn được sử dụng trong các Dàn nhạc Sân khấu Tuồng, Đờn Ca Tài Tử, và Cải Lương. Khi diễn tấu nhạc công gẩy đàn bằng miếng gẩy nhựa tạo ra âm sắc trong trẻo, tươi sáng.

Đàn Sến được người Việt bản địa hóa từ cây đàn Mai Hoa (Meihuaqin [梅花琴]) của Trung Hoa để dùng trong các Dàn nhạc Sân khấu Tuồng, Đờn Ca Tài Tử, Cải Lương miền Nam. Tương truyền đàn Mai Hoa du nhập vào Việt Nam do người Triều Châu ở tỉnh Quảng Đông di cư sang Việt Nam.
                                                                     Hoàng Trần sưu tầm

TIÊU
Tiêu là một loại nhạc cụ thổi dọc trung âm của dân tộc Việt.
Tiêu cũng thông dụng ở Đông Á (được thế giới biết đến như Xiao [Tiêu] của người Trung Hoa). Tiêu thường có dạng ống trụ tròn như Sáo Trúc, nhưng khi sử dụng lại để theo phương dọc và thổi dọc theo thân ống. Tiêu thường to và dài hơn Sáo, do đó âm thanh của nó trầm hơn.
Đôi khi Sáo Dọc bị lầm với Tiêu vì cùng thổi dọc. Nhưng điểm khác biệt cơ bản giữa Sáo Dọc và Tiêu là ở kích thước, chiều dài, đầu thổi, số lỗ thổi và vị trí các lỗ bấm (các bạn xem thêm bài chi tiết “Sự khác nhau giữa Sáo và Tiêu” bên dưới). Tuy nhiên, lưu ý các bạn cũng có những trường hợp ngoại lệ là ống tuy to nhưng vẫn là Sáo, còn ống tuy ngắn, nhỏ nhưng vẫn là Tiêu; và các bạn có thể phân biệt hai loại nhạc cụ này thông qua hình thể các đầu thổi.
Cũng như Sáo, Tiêu cũng được làm từ tre, trúc, nằm trong nhóm Ty Trúc của thiết chế Bát Âm. Sáo thổi ngang nhưng Tiêu là nhạc cụ thổi dọc. Tiêu đã có ở Việt Nam hàng nghìn năm, trên hình chạm ở bệ cột đá chùa Phật Tích từ thế kỷ XI ta thấy hình người thổi tiêu.

Tiêu làm bằng ống nứa rỗng hai đầu, đường kính khoảng 2cm, dài khoảng 45cm. Nghệ nhân khoét hai bên gờ miệng ống một lỗ hình bán nguyệt để thổi. Trong trường hợp này phải tì đầu ống Tiêu có lỗ thổi vào cằm để bịt đầu ống. Có nơi làm bằng ống nứa một đầu có mấu, để không phải tì cằm. Tiêu có 6 lỗ bấm hình tròn nằm dọc theo lỗ thổi và một lỗ bên dưới được khoét các lỗ theo thang âm bảy cung chia đều.
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục chú thích: “Tiêu: Cái tiêu xưa làm bằng trúc, hạng lớn: 23 ống, hạng nhỏ: 16 ống, khác với cái tiêu ngày nay chỉ có một ống” (theo Từ nguyên, trang 1141) thì có thể đây là Bài Tiêu.
Âm thanh của Tiêu trầm ấm, du dương, trữ tình phù hợp với tình cảm sâu lắng, êm dịu. Tiếng Tiêu nghe gần tưởng như nhỏ, nhưng thật ra vang rất xa. Tầm âm Tiêu rộng hai quãng tám: từ đô1 đến đô3 (c1-c3).
Trước đây người ta thường chế tạo Tiêu bằng ống nứa ống rùng hoặc gỗ, hiếm khi làm bằng ống trúc vì trúc đốt ngắn, không thể đẹp hơn nứa hoặc trùng. Tuy nhiên hiện nay đã có nhiều thay đổi trong quan điểm chế tạo, rất nhiều loại trúc, nứa hoặc thuộc họ tre trúc đã được thử nghiệm để làm Tiêu, có thể nói mỗi loại vật liệu đểu cho ra những âm sắc đa dạng khác nhau.
Lỗ âm cơ bản và lỗ treo nếu có thì thường nằm ở cuối ống Tiêu. Tiêu gồm có 6 lỗ bấm, 5 lỗ khoét thẳng hàng với lỗ thổi, còn 1 lỗ nằm ở mặt sau cho ngón cái của tay trái sử dụng. Sở dĩ phải khoét 2 lỗ bấm ở phía sau vì ống tiêu dài, đường kính rộng, muốn đạt được các âm theo yêu cầu, các lỗ bấm phải khoét cách xa nhau, nếu 6 lỗ đều khoét trên một hàng thẳng, các ngón tay không đủ sức giang ra để bấm.
Âm thanh của Tiêu nghe trầm, ấm. Tiêu cũng có nhiều loại giọng như Sáo Ngang, có âm sắc trang nhã, mộc mạc, phù hợp để diễn tả những giai điệu trữ tình, những tình cảm sâu sắc. Hai loại Tiêu phổ biến nhất là C và D (tức tiêu ĐÔ và tiêu RÊ), các loại Tiêu trầm hơn thường không phổ biến bằng vì khó sử dụng hơn: lỗ bấm cách nhau xa hơn, thổi tốn nhiều hơi…

Tiêu có âm vực khoảng 2 quãng tám. Để viết nhạc cho Tiêu các nhạc sĩ có thể viết ở khóa Sol hoặc Fa, nhưng thường thì ở khóa Sol. Tuy nhiên âm vực thực của Tiêu là thấp hơn nốt nhạc được ghi 1 quãng tám. Tuy vậy, một số loại Tiêu ngày nay đã được cải tiến, âm vực có thể lên tới 3 quãng tám hoặc hơn. Đặc biệt những loại Tiêu của Việt Nam có thể chạy đủ 3 quãng tám Chromatic và thêm 2 nốt ở quãng 4 là C4 và C4# (chạy quãng chromatic ở đây được hiểu là thổi liền hơi 1 mạch đủ 12 nốt của quãng).
Khi thổi người ta cầm dọc ống Tiêu và tỳ cằm vào gần lỗ thổi để tạo ra âm thanh. Kỹ thuật diễn giống như sáo ngang, tuy nhiên không thích hợp khi dùng ngón phi, ngón lướt, ngón đánh lưỡi hay ngón vuốt hơi… Âm bội cũng hiếm khi được thực hiện. Tuy nhiên từ khi được cải tiến để chạy đủ 3 quãng tám Chromatic và thêm 2 nốt quãng 4 là C4, C4#, thì Tiêu ngày càng áp dụng nhiều kỹ thuật lướt ngón nhanh của Flute.
Tiêu tham gia trong Dàn Nhạc Tài Tử, Ban Nhạc Tang Lễ, Phường Bát Âm, Dàn Nhạc Sân Khấu Chèo, Tuồng – hoặc đơn thuần là độc tấu để giải trí hằng ngày. Ngày nay, Tiêu đã được đưa vào Dàn Nhạc Dân Tộc Tổng Hợp hòa tấu.


                                                                      Hoàng Trần sưu tầm


GUITAR PHÍM LÕM



Guitar phím lõm là loại nhạc cụ độc đáo của Việt Nam được biến cải dựa trên cây đàn ghi-ta (guitare espagnole moderne) của phương Tây trong quá trình phát triển của loại hình âm nhạc tài tử và cải lương ở Nam bộ. Nó còn có tên là Lục huyền cầm hay Ghi-ta Việt Nam, Ghi-ta vọng cổ.
Guitar phím lõm là cả một quá trình thử nghiệm, chọn lọc với nhiều nhạc cụ phương Tây khác nhau, điều chỉnh, cải biến để phù hợp với loại hình âm nhạc đòi hỏi những khả năng biểu hiện tình cảm, kỹ thuật đa dạng và phong phú. Đầu tiên đàn guitar phím lõm ra đời được mang tên là "lục huyền cầm" tuy nó chỉ có 4 dây. Cho đến ngày nay, nó được sử dụng phổ biến với hệ thống gồm 5 dây, đó là cả một quá trình với sự đóng góp của nhiều nghệ nhân danh tiếng trong làng nhạc tài tử cải lương.
Về mặt cấu tạo, từ cây đàn ghi-ta 6 dây ban đầu, người ta khoét các phím lõm xuống chừng 1 cm, hình bán nguyệt nhằm tạo ra âm thanh khác biệt, tạo độ ngân rung đặc trưng của ca vọng cổ.
Thùng đàn: hình tròn dẹt, đường kính 36 cm.
Mặt đàn: mặt đàn phẳng, làm bằng gỗ thông nhẹ, xốp, thành đàn thấp khoảng 8,5 cm làm bằng gỗ cứng có lỗ thoát âm, trên mặt đàn có một bộ phận để mắc dây đàn và một ngựa đàn.
Dọc đàn (cần đàn): dài 62 cm làm bằng gỗ cứng, thường dùng gỗ trắc, có tất cả 19 phím bằng kim loại (đồng thau) gắn đàn trên cần đàn: 12 phím đàn gắn đàn trên dọc (cần đàn) và 7 phím gắn trên cần và mặt đàn. Trên dọc (cần đàn), khoảng cách giữa hai ô phím, người ta khoét lỗ sâu xuống cần đàn, để tạo ra hiệu quả âm thanh đặc biệt, như nhấn, rung... thể hiện chữ nhạc dân tộc Việt Nam rõ nét và sâu sắc hơn.
Dây đàn: là loại dây kim khí thường là inox, chạy qua ngựa đàn, kéo lên cần đàn, trước khi xỏ vào trục dây được luồn qua một miếng xương đặt trên mặt cần đàn. Qua quá trình hình thành và phát triển, có nhiều hệ thống lên dây như:Dây Xề Bóp: Sòl, Ðô, Sol, Rế;Dây Sài Gòn: (Rề), Sol, Rê, Sol, Rế; Dây Rạch Giá: (Rề), Sol, Rê, Sol, La, Mí; Dây Tứ Nguyệt: (Rề), La, Rê, La, Rế;Dây Lai: (Sol), Rê, Sol, Rê, La, Rế;Dây Ngân Giang: Sòl, Rê, Sol, Si, Rế, hoặc Rề, La, Rê, Fa#, La;Dây bán Ngân Giang: Rê, Sol, Rê, Si, Rế
Hiện nay hệ thống dây Lai: Rê, Sol, Rê, La, Rế (có khi 6 dây: Sol, Rê, Sol, Rê, La, Rế) được coi là phổ biến nhất được sử dụng để biểu diễn, giảng dạy và học tập, đặc biệt hai dây đàn số 1 và số 2 có tiết diện nhỏ hơn dây Ghi-Ta bình thường để tạo cho âm sắc mềm mại và thanh thoát hơn.
Bộ phận lên dây: có 6 trục để lên dây, mỗi trục xuyên ngang thành đàn (ở đầu đàn) để mắc dây và lên dây.
Miếng gảy đàn: nghệ nhân gảy đàn bằng miếng nhựa với những ngón gảy, hất, vê, khảy, móc...
Về kỹ thuật biểu diễn, khi dùng chơi nhạc cổ, guitar phím lõm không dùng dây 6. Dây đàn được lên theo âm giai ngũ cung (pentatonic).


Tư thế đàn:
Ngồi thấp: xếp chân trên chiếu
Ngồi thẳng trên ghế, đàn được đặt ngang tầm tay:
Kỹ thuật tay trái: có ngón láy, ngón luyến, ngón bật, ngón mổ, ngón bịt và đặc biệt là ngón vuốt vì dọc (cần đàn). Guitar Việt Nam có bàn phím lõm, ngón này thường kết hợp với ngón vê của tay phải.
Ngón rung ngang: còn gọi là rung gân trong, là cách rung theo chiều ngang của dây, đối với những âm rung có tính chất bắt buộc và thường xuyên như Xự và Cống trong Hơi Bắc, Xang và Oan trong Hơi Nam thì có thể đặt dấu rung ở hoá biểu nơi thích hợp trên dòng hoặc khe nhạc. Tùy theo trình độ và thói quen, người ta có thể xử lý chữ nhạc theo mức độ khác nhau: rung nhanh và đều đặn gọi là rung mượt, rung nhanh và gợn sóng gọi là rung hột.
Ngón nhấn: là dùng ngón bấm tay trái nhấn dây xuống để tạo hiệu quả tiếng đàn cao hơn cung bậc bình thường, ký hiệu dấu nhấn ghi trên nốt.
Ngón nhấn luyến: là ngón nhấn một âm này đến một hoặc nhiều âm khác có cao độ cao hoặc thấp hơn âm khởi đầu, tất cả đều thực hiện trên cùng một ô phím. Hiệu quả nhấn luyến tạo cho âm thanh nghe liền lạc, mềm mại và mang đậm tính dân tộc.
Ngón nhấn rung: là kết hợp giữa ngón nhấn và rung, ví dụ như Xang và Oan trong Hơi Nam.
Ngón nhấn mượn cung: là tạo một âm nào đó bằng cách nhấn trước trên cung phím của một bậc âm trước nó, hiệu quả âm thanh nghe tình cảm hơn so với bấm ngay trên cung phím chính của âm này.
Ngón nhấn láy: là kết hợp giữa nhấn và láy, tùy theo hình thức láy nó có thể là nhấn láy dài, nhấn láy ngắn, nhấn láy vỗ, nhấn láy chùm…
Ngón vuốt: là dùng ngón tay trái vuốt đi lên hay đi xuống theo chiều dọc của dây trong khi tay phải chỉ gảy một lần hay kết hợp với ngón vê hay ngón phi.
Bồi âm: là cách sử dụng ngón tay trái chạm nhẹ vào giữa các phím ở các ngăn V, VII, IX, XII, XVII trong khi tay phải gảy dây đó ở sát ngựa đàn. Cũng có thể dùng đầu ngón trỏ của tay mặt chạm vào dây cũng trên các ngăn trên trong khi ngón áp út của tay mặt gảy ngay dây đó. Âm bồi có hiệu quả nghe như tiếng chuông.

                                                                         Hoàng Trần sưu tầm

ĐÀN NHỊ (ĐÀN CÒ)


Đàn Nhị/Cò là nhạc cụ thuộc bộ dây có cung vĩ, do đàn có 2 dây nên gọi là Đàn Nhị (). Đàn xuất hiện ở Việt Nam khoảng thế kỷ 10. Ngoài người Kinh, nhiều dân tộc thiểu số Việt Nam cũng sử dụng rộng rãi nhạc cụ này như Tày, Nùng, Thái, Mường, Dao, Giáy, H’Mông v.v.
Theo tài liệu khảo cổ đã phát hiện ở chùa Vạn Phúc (Phật Tích – Thanh Sơn – Hà Bắc) có khắc chạm một dàn nhạc ở bệ đá kê chân cột chùa Phật Tích, với những nhạc cụ có xuất xứ từ ấn Độ và Trung Hoa. Dàn nhạc đó gồm 10 nhạc công ăn mặc giống như người Chăm và chơi các loại nhạc cụ trong đó có một nhạc cụ gần giống như Đàn Hồ 2 dây và là tiền thân của cây Đàn Nhị bây giờ.Căn cứ vào đó người ta đã ước đoán Đàn Nhị có thể du nhập vào Việt Nam theo con đường của người Chăm và cũng có thể du nhập theo con đường Trung Hoa tùy theo từng thời gian địa điểm khác nhau.” (Theo lịch sử âm nhạc của giáo sư Trần Văn Khê và Văn Thương).
Tuy phổ biến tên gọi “Đàn Nhị”, nhiều dân tộc tại Việt Nam còn gọi đàn bằng các tên khác nhau. Người Kinh gọi là “Líu” (hay “Nhị Líu” để phân biệt với “Nhị Chính”), người Mường gọi là “Cò Ke”, người miền Nam gọi là “Đờn Cò”. Hình dáng, kích cỡ và nguyên liệu làm Đàn Nhị cũng khác nhau đôi chút tùy theo tộc người sử dụng nó.Người dân Nam Bộ gọi là "Đàn Cò" vì hình dáng giống như con cò, trục dây có đầu quặp xuống như mỏ cò, cần đàn như cổ cò, thân đàn như con cò, tiếng đàn nghe lảnh lót như tiếng cò. Trong các dàn nhạc phường bát âm, ngũ âm, nhã nhạc, chầu văn, sắc bùa, nhặc tài tử, cải lương dàn nhạc dân tộc tổng hợp, dân ca... đều có Đàn Cò.
Loại Đàn Nhị thông dụng hiện nay có những bộ phận chính như sau:
1. Bát nhị (còn gọi là ống nhị): là bộ phận tăng âm (bầu vang) rỗng ruột, hình hoa muống, làm bằng gỗ cứng. Bát nhị có 2 đầu, đầu này bịt da rắn hay kỳ đà, còn đầu kia xòe ra không bịt gì cả. Ngựa đàn nằm ở khoảng giữa mặt da.
2. Dọc nhị (còn gọi là cần nhị, cán nhị): dáng thẳng đứng, đầu hơi ngả về phía sau, gốc cắm xuyên qua lưng bát nhị, gần phía mặt da.
3. Trục dây: trục trên và trục dưới đều gắn xuyên qua đầu dọc nhị nằm cùng hướng với bát nhị.
4. Dây nhị: Trước đây dây đàn được làm bằng sợi tơ se, ngày nay làm bằng nilon hoặc kim loại. Dây kim loại cho âm thanh chuẩn hơn nhưng không ngọt ngào bằng dây tơ hay dây nilon. Dây đàn chỉnh theo quãng 4 đúng, quãng 5 đúng, quãng 7 thứ… nhưng phổ biến nhất là quãng 5 đúng.
5. Cử nhị (hay Khuyết nhị): là một sợi dây tơ se neo 2 dây đàn vào gần sát dọc nhị, nơi dưới hai trục dây. Có khi cử nhị là một khung áo buộc gần sát dọc nhị, hai dây đàn xỏ qua hai lỗ khung này. Cử nhị là bộ phận để điều chỉnh cao độ âm thanh. Nếu kéo cử nhị xuống, 2 dây đàn sẽ ngắt quãng hơn, tạo ra âm thanh cao hơn. Nếu đẩy cử nhị lên khi đàn 2 dây sẽ phát ra âm thanh trầm hơn vì quãng dây dài hơn. Tuy nhiên để lên dây đàn các nghệ nhân còn vặn trục dây nữa.
6. Cung vĩ: làm bằng cành tre, cành lớp hay gỗ có mắc lông đuôi ngựa. Những lông đuôi ngựa nằm giữa hai dây đàn để kéo đẩy, cọ xát vào dây đàn tạo ra âm thanh. Do những lông đuôi ngựa kẹt hai dây đàn nên ta không thể tách rời cung vĩ khỏi thân đàn.
Đàn Nhị có âm vực rộng hơn 2 quãng tám, âm thanh trong sáng, rõ ràng, mềm mại gần với giọng hát cao (giọng kim). Muốn thay đổi âm sắc hoặc giảm độ vang các nghệ nhân dùng đầu gối trái bịt một phần miệng loa xòe của bát nhị (khi ngồi trên ghế kéo đàn) hay dùng ngón chân cái chạm vào da của bát nhị (khi ngồi trên phản kéo đàn, trên chiếu). Nhờ những cách này âm thanh sẽ xa vẳng, mơ hồ, tối tăm và lạnh lẽo diễn tả tâm trạng thầm kín, buồn phiền…



Đàn Nhị giữ vai trò chủ đạo trong Hát Xẩm, là thành viên trong nhạc phường bát âm, dàn nhã nhạc, ban nhạc chầu văn, tài tử và dàn nhạc tổng hợp. Ngày nay thỉnh thoảng nó xuất hiện cả trong dàn nhạc pop, rock hiện đại để tăng màu sắc trong cách phối âm.
Kỹ thuật đàn khá phong phú, bao gồm từ ngón vuốt, ngón nhấn, ngón láy, ngón chuyền đến cung võ liền, cung vĩ ngắt, cung vĩ rời và cung vĩ rung, v.v.

                                                              Hoàng Trần sưu tầm


ĐÀN BẦU



  Cũng như hầu hết các nhạc khí khác của Việt Nam, đàn bầu không biết do ai sáng chế, và xuất hiện từ thời kỳ nào. Dựa vào chuyện kể của GS Trần Văn Khê, thầy nói rằng trong 1 bài tham luận về đàn bầu nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khóat, đọc tại Bulgary nhân dịp Liên Hoan Âm Nhạc Dân Gian. Chúng tôi tóm tắt lại như sau (người sưu tầm tóm tắt):

                 Tương truyền ngày xưa có một người tên là Trương Viên cùng các trai tráng lên đường chống giặc. Trước khi đi, chàng căn dặn vợ, nếu chẳng may loạn lạc khắp nơi, thì hãy dẫn mẹ trở về quê lánh nạn. Chiến tranh càng ngày càng khốc liệt, vợ Trương Viên phải dắt mẹ trở về quê. Trên đường đi vất vả, cực khổ, nhiều khi nàng nhịn đói để nhường cơm cho mẹ. Vào một buổi sáng, hai người đang ngang qua một ngôi làng nọ, đột nhiên được người dân đón tiếp và cho ăn. Rồi sau đó, nàng thay mẹ bị mốc mắt để tế hung thần nơi ấy. Vì cảm động lòng hiếu thảo của nàng, Tiên trên trời ban cho nàng cây đàn một dây, dặn rằng: "Cây đàn này sẽ giúp con nuôi được mẹ và sau này gia đình con sẽ được đoàn tụ." Hai mẹ con đánh đàn để mưu sinh. Chiến tranh kết thúc, Trương Viên vội vã đi kiếm mẹ và vợ, khi đi ngang ngôi làng đó, chàng hỏi thăm và được mọi người thuật lại. Chàng tiếp tục tìm và bỗng dưng nghe thấy tiếng đàn rất lạ, rồi lại thấy một đám đông đứng chen chúc nhau, hình như họ đang bị quyến rũ bởi tiếng đàn đó. Hiếu kỳ, Trương Viên lách vào coi, thì giật mình nhận ra vợ mình đang đàn 1 cây đàn lạ, còn mẹ đang ngồi ngã nón xin tiền. Trương Viên mừng rỡ, ôm chầm lấy mẹ và vợ, cả ba người khóc như mưa. Vợ ông vì quá tủi thân nên khóc đến mức máu chảy ra từ mặt và đột nhiên mắt nàng sáng trở lại.
                 Mặc dầu đây chỉ là một truyền thuyết, nhưng khi một nhạc khí mà đã có được một truyền thuyết lưu truyền rộng rãi trong dân gian như thế đủ chứng tỏ rằng nhạc khí đó được yêu thích biết bao nhiêu. Vì đàn bầu xuất phát từ dân gian, nên ít được nhắc đến trong sách sử. Phải đợi tới thời Vua Thành Thái, đàn bầu mới được thay thế đàn tam trong ngũ tuyệt tranh-tỳ-nhị-nguyệt và bầu. Tuy vây, trong sách Kiến Văn Tiểu Lục, Lê Quí Đôn có ghi lại rằng sứ nhà Nguyên khi sang nước Việt có nói đã thấy cây đàn 1 dây tại nước Việt.
                 Mô tả đàn bầu: Đàn bầu là loại đàn hình hộp chữ nhật, 1 đầu to, 1 đầu nhỏ hơn 1 chút, thường dài khoảng 110cm, bề ngang khoảng 12.5cm, đầu nhỏ khoảng 9.5cm, cao khoảng 10.5cm. Mặt đàn và đáy đàn bằng gỗ ngô đồng, hoặc gỗ thông hay gỗ tung. Mặt đàn hơi cong lên 1 chút, đáy đàn phẳng có 1 lỗ nhỏ để treo đàn, 1 hình chữ nhật ở giữa để cầm đàn,và 1 khoảng trống để cột dây đàn. Thành đàn bằng gỗ cứng như cẩm lai, hoặc mun để cho chắc chắn và vò thể cẩn ốc được. Trên thành đàn phía tay mặt người khảy đàn có 1 miếng xương hoặc kim loại nhỏ gọi là ngựa đàn, qua ngựa đàn, sợi dây thép dầy khoảng 40mm được luồn xuống và cột vào cái trục xuyên qua thành đàn gọi là cái trục lên dây đàn, trục này đẹp vì nó được dấu phía sau thành đàn, nhưng rất dễ tuột dâym vì vậy ngày nay người ta dùng khóa sắt cho chắc hơn. Về phía tay trái người đàn, có 1 cần dây đan còn gọi là vòi đàn trên đó gắn nửa trái bầu khô hoặc tiện bằng gỗ, 1 đầu dây đàn cột vào cần khoảng giữa bầu đàn. Ngoài ra, để tăng âm lượng tiếng đàn, người ta lắp mobin điện vào dưới mặt đàn, đồng thời phải khoét 1 lỗ cắm dây zắc dẫn tín hiệu rung của dây vào bộ phận tăng âm. Chính vì xài điện nên dây đàn phải dùng dây bằng thép thay vì bằng inox.
                 Cách cột dây đàn: Cột dây đàn bầu tương đối khó nên chúng ta xem qua cách cột dây 1 chút.
                 Que khảy đàn: Đây là một bộphận quan trọng dể khảy đàn bầu, Que thường được vót bằng tre, bằn ggiang, bằng thân dừa, gỗ mềm mại hơn, người ta hay làm bông boặc tưa đầu nhọn 1 chút. Ngày xưa hay dùng que dài khoảng 10cm, ngày nay với nhiều kỹ thuật diễn tấu nhanh nên người ta hay dùng que ngắn chừng 4-4.5cm.
                 Các tư thế diễn tấu: Thông thường nhất là đàn bầu đặt trên 1 cái bàn nhỏ (thường là hộp đàn có lắp 4 chân rời, trên mặt giá có 2 chỗ chặn để khi kéo dây, đàn khôn gbị di chuyển theo). Khi ngồi khoanh chân trên chiếu để đàn thì đầu gối chân mặt phải tì vào cạnh mặt đàn nhằm giữ cho cây đàn khỏi bị xê dịch. Cũng có thể đứng đàn, nhưng không đẹp và cây đàn không được vững bằng cách ngồi.
                 Cách cầm que đàn: Que đàn được đặt trên 2 đốt ngón tay trỏ và giữa của bàn tay mặt, còn đốt thứ 1 của ngón cái thì giữ que đàn, đầu nhỏ của que thường nhô ra khoảng 1.5cm. Hai ngón còn lại thì hơi cong theo ngón trỏ và giữa. Khi khảy dây ta đặt cạnh bàn tay vào điểm phát ra bội âm, hất nhẹ que đàn cùng llúc nhấc bàn tay lên, ta sẽ có được âm bội.
                 Cách xác định điểm trên đàn: Nếu gọi dây buông là nốt C thì nếu chia dây từ cần đàn đến ngựa đàn:
1/2 dây có nốt C1 cao hơn dây buông 1 quãng 8
1/3 dây sẽ là nốt G1
1/4 ta sẽ có nốt C2
1/5 dây sẽ có E2
1/6 dây sẽ có nốt G2
1/7 dây sẽ là nốt Bb. Nhưng nốt này ít được sử dụng.
1/8 sẽ có nốt C3
                 Tóm lại, sáu điểm trên đàn la C1 – G1 – C2 – E2 – G2 – C3 là 6 diểm thông dụng nhất. Ngoài ra ta có âm thực tức là khảy dây buông, thường khảy gần ngựa đàn chứ không khảy vào các điểm đã ghi. Bây giờ, trên 7 âm thanh này, nếu vài kỹ thuật tay trái như căng dây hoặc chùng dây, ta sẽ tạo được rất nhiều âm thanh khác nữa.
Nếu chỉ dừng lại ở chỗ tạo ra những âm thanh rời rạc thì đàn bầu chẳng thể làm cho ta mê mẩn hay xúc động được. Vậy đàn bầu hay ở chỗ nào? Chúng ta cũng thấy rằng chính những kỹ thuật của tay trái đã nuôi dưỡng và làm đẹp âm thanh, cho âm thanh một hơi thở, một sinh khí, một cái hồn. Những kỹ thuật đó là gi? Xin chúng ta cùng tìm hiểu.

                 Cách đặt tay trái trên cần đàn:
                 Ngón rung: Khi khảy dây, các ngón tay trái rung nhẹ cần đàn, âm thanh sẽ phát ra tự như làn sóng thì ta có ngón rung. Ngón rung rất quan trọng vì không những nó làm cho tiếng đàn mềm mại mà nó còn thể hiệnphong cách của bản nhạc. Với các bài buồn, hoặc bài vui, ta phải rung theo những âm đã được qui định.
                 Ngón vỗ: Vỗ ngón cái, vỗ nón trỏ. Theo nghệ sĩ ưu tú Thanh Tâm thì ngón vỗ thường diễn tả tình cảm đau khổ, uát ức, nghẹn ngào.
Ngón vuốt: miết ngón tay vào cần đàn để cao độ trượt qua các âm và dừng lại ở âm qui định.
                 Ngón luyến: kéo thẳng cần lên hoặc xuống tới âm qui định
                 Ngón tạo tiếng chuông: Nón tạo âm bội trên âm bội có sẵn. v.v.
                                                                             Hoàng Trần sưu tầm


ĐÀN NGUYỆT (ĐÀN KÌM)




Đàn Nguyệt (Nguyệt Cầm), trong miền Nam còn gọi là Đờn Kìm, Vọng Nguyệt Cầm, hay Quân Tử Cầm là nhạc cụ dây gảy của dân tộc Việt. Loại đàn này có hộp đàn hình tròn như mặt trăng được gọi là “Đàn Nguyệt”. Theo sách xưa, đàn nguyên thủy có 4 dây, sau rút lại còn 2 dây. Sách của Phạm Đình Hổ ghi rằng đàn nguyệt xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỷ 18.
Đàn Nguyệt là cây đàn rất phổ biến dùng để độc tấu, hòa tấu với nhiều ngón chơi độc đáo như ngón nhấn, ngón vê, ngón luyến… Màu âm đàn Nguyệt tươi sáng, rộn ràng, tình cảm, đa dạng trong diễn tả các trạng thái cảm xúc âm nhạc. Đàn Nguyệt được sử dụng trong hát Chèo, Chầu Văn, Ca Huế, Đờn Ca Tài Tử và Cải Lương…
Đàn nguyệt có những bộ phận chính như sau:
Bầu vang: Bộ phận hình tròn ống dẹt, đường kính mặt bầu 30 cm, thành bầu 6 cm. Nền mặt bầu vang có bộ phận nằm phía dưới gọi là ngựa đàn (cái thú) dùng để mắc dây. Bầu vang không có lỗ thoát âm.
Cần đàn (hay Dọc đàn): làm bằng gỗ cứng, dài thon mảnh, bên trên gắn 8-11 phím đàn, trước đây chỉ gắn 8 phím (nay những người chơi nhạc tài tử Nam bộ vẫn thường dùng đàn 8 phím). Những phím này khá cao, nằm xa nhau với khoảng cách không đều nhau.
Đầu đàn: hình lá đề, gắn phía trên cần đàn, nó có 4 hóc luồn dây và 4 trục dây, mỗi bên hai trục.
Dây đàn: có 2 dây, trước đây làm bằng dây tơ, ngày nay thường làm bằng dây nilon. Tuy có 4 trục đàn nhưng người ta chỉ mắc 2 dây (một dây to một dây nhỏ). Cách chỉnh dây thay đổi tùy theo người sử dụng. Có khi 2 dây cách nhau quãng 4 đúng, có khi cách quãng năm đúng hoặc quãng bảy hay quãng tám đúng. Song cách thông dụng nhất vẫn là lên dây theo quãng năm đúng. Đàn nguyệt là nhạc cụ khảy dây, được dùng thường xuyên trong ban nhạc chầu văn, tài tử, phường bát âm và trong nhiều dàn nhạc dân tộc khác.
Nhìn chung đàn nguyệt có âm sắc trong sáng, ở khoảng âm thấp thì hơi đục. Nó có thể diễn đạt nhiều sắc thái tình cảm khác nhau, từ dịu dàng, mềm mại đến rắn rỏi, rộn ràng. Ngày xưa người biểu diễn nuôi móng tay dài để khảy đàn nguyệt, ngày nay miếng khảy đàn đã giữ nhiệm vụ này. Một số kỹ thuật sử dụng tay phải trong đàn nguyệt như sau:
Ngón phi: lối đánh cổ truyền, không dùng miếng khảy mà sử dụng những ngón tay vẩy liên tiếp nhanh trên dây đàn, hiện quả âm thanh gần giống như ngón vê. Ngón phi có hai cách diễn:
Phi lên: thường sử dụng trên một dây đàn, bắt đầu từ ngón út rồi lần lượt những ngón khác hất vào dây đàn.
Phi xuống: sử dụng trên cả 1 dây đàn hoặc trên cả 2 dây. Phi xuống là vẫy nhanh các ngón tay vào dây đàn, bắt đầu từ ngón út (có khi bắt đầu từ ngón trỏ) rồi lần lượt những ngón khác khảy dây đàn.
Khi biểu diễn ngón phi người ta dùng 4 ngón tay (không sử dụng ngón tay cái). Nếu đánh bằng miếng khảy đàn họ chỉ sử dụng 3 ngón vì ngón cái và ngón trỏ phải giữ miếng khảy.
Ngón vê: khảy liên tiếp trên dây đàn. Kỹ thuật này thường dùng trong nhạc hát văn. Cách vê có thể bằng móng tay hay miếng khảy, vê 1 dây hoặc 2 dây đều được.
Ngón gõ: dùng những ngón tay phải gõ vào mặt đàn, mục đích để báo hiệu cho hát, cho các nhạc khí khác hòa tấu hoặc điểm giữa những nhạc cụ, đoạn nhạc hay những lúc các nhạc cụ khác ngưng hoạt động.
Bịt: làm âm thanh vừa vang lên liền tắt đột ngột. Kỹ thuật sử dụng tay trái trong đàn nguyệt gồm có 12 cách: ngón rung, ngón nhấn, ngón nhấn luyến, nhấn luyến, ngón láy, ngón láy rền và ngón láy giật. Trước đây người ta ít sử dụng ngón vuốt, nhưng ngày nay có thể xem nó là kỹ thuật số 9 của tay trái. Kế tiếp là ngón bật dây, âm bội và đánh chồng âm (hợp âm).


Đàn nguyệt được dùng để biểu diễn các thể loại nhạc dân ca của Việt Nam. Trong ban nhạc “Ngũ tuyệt” của nhạc thính phòng cổ truyền thì đàn nguyệt đóng vai trò điều khiển. Bốn nhạc cụ kia trong dàn nhạc gồm có đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn nhị, đàn tam và ống sáo. Đàn nguyệt cũng giữ vai trò tối trọng yếu trong nhạc chầu văn.


Dân tộc Khmer có Ðàn Chạpet tương tự như Đàn Nguyệt của dân tộc Việt Nam, nhưng cách đánh của họ không có nhấn luyến.
                                                                            Hoàng Trần sưu tầm
ĐÀN TRANH




Đàn tranh, cũng được gọi là đàn thập lục, là nhạc cụ của người Việt (Kinh). Đàn thuộc họ dây chi gảy. Vì có 16 dây nên đàn còn có tên chữ là Thập lục.Âm sắc Đàn Tranh trong trẻo, sáng sủa thể hiện tốt các điệu nhạc vui tươi, trong sáng. Đàn Tranh ít thích hợp với những tính cách trầm hùng, khoẻ mạnh. Tầm âm Đàn Tranh rộng 3 quãng 8, từ Dô lên Dô3.Đàn Tranh thường được sử dụng để độc tấu, hòa tấu, đệm cho ngâm thơ, hát, tham gia trong các dàn nhạc Tài Tử, phường Bát Âm, dàn Nhã Nhạc và các dàn nhạc dân tộc tổng hợp.
Theo giáo sư tiến sĩ Trần Văn Khê: Nguồn gốc Đàn Tranh Việt Nam là đàn "Tranh" giống như đàn "Sắt" từ Trung Quốc truyền sang nước Việt có thể từ đời Trần hay trước nữa, dùng trong dân dã dưới dạng 9 dây, 15 dây, 16 dây và từ xưa đến giờ thay đổi số dây từ dây tơ sang dây cước (dây đồng) đến dây thép. Nhưng qua 7, 8 thế kỷ, người nước Việt dùng nó, tạo cho nó một phong cách đặc thù trong thủ pháp, ngón đàn, tay nhấn nhá, trong thang âm điệu thức. Đàn tranh đã thành nhạc cụ hoàn toàn mang tính dân tộc Việt Nam vì đã được người Việt ưa dùng, truyền từ đời này đến đời kia hằng 7-8 trǎm nǎm, phù hợp với quan điểm thẩm mỹ của người Việt, và nói rõ ngôn ngữ âm nhạc Việt Nam.
Cẩm sắt là mỹ danh của cây đàn Sắt. Sắt là đàn làm bằng gỗ ngô đồng, song tấu với đàn Cầm. "Duyên cầm sắt", "sắt cầm hảo hợp" là từ đây mà ra.Theo truyền thuyết, theo lệnh vua Phục Hy, Tố Nữ gẩy đàn Sắt (gồm 50 dây) tế trời . Nhưng Phục Hy không bằng lòng và ngăn cấm sử dụng vì nghe tiếng đàn quá tê tái , não nuột bi ai thảm thiết. Nhưng thấy dân chúng vẫn lén lút xử dụng nên Phục Hy đành phải ra lệnh sửa đổi đàn Sắt chỉ còn lại 25 dây. Nghe đồn đàn Sắt là tổ tiên của đàn Tranh. Cái tên "Tranh" tức là "tranh giành", theo như một truyền thuyết nói rằng: Ngày xưa có hai người tranh nhau một cây đàn Sắt có 25 dây. Mông Điềm, một vị quan thời nhà Tần, mới chặt cây đàn sắc ra làm hai, một cây đàn 12 dây và một cây đàn 13 dâỵ Một thuyết khác nói rằng dưới thời nhà Tần có hai chị em nhà kia tranh nhau một cây đàn sắc có 25 dây. Dành qua dành lại, cây đàn rớt xuống bể làm hai. Người chị lấy cây đàn có 13 dây, còn người em lấy cây đàn 12 dây.


Về cấu trúc, Đàn tranh bao gồm những bộ phận sau:
Hộp đàn: Hình hộp dài, chiều dài khoảng 110cm, đầu đàn hẹp khoảng 13cm, cuối đàn rộng khoảng 20cm.
Mặt đàn: Mặt đàn Tranh vồng lên tượng trưng cho vòm trời làm bằng gỗ xốp, nhẹ . Loại gỗ thường làm mặt Đàn Tranh là gỗ Ngô Đồng.
Thành đàn: Làm bằng gỗ trắc, mun hoặc cẩm lai hoặc gỗ gụ
Ðáy đàn: Dưới đáy đàn ở đầu rộng, phía tay phải người đánh đàn có một lỗ thoát âm hình bán nguyệt để lắp dây, ở giữa đàn có 1 lỗ hình chữ nhật để cầm đàn khi di chuyển và ở đầu hẹp có một lỗ tròn nhỏ để treo đàn.
Cầu đàn: Ở đầu rộng, một cầu đàn bằng gỗ, hơi nhô lên và uốn cong theo mặt đàn có các lỗ nhỏ xếp hàng ngang có nạm hoặc cẩn kim loại để xỏ dây.
Ngựa đàn: Trên mặt đàn có nhạn (ngựa đàn) tương ứng với số dây, các con nhạn để đỡ dây đàn và có thể di chuyển được để điều chỉnh độ cao thấp của dây. Để có độ bền và âm thanh tốt, các con nhạn  thường làm bằng gỗ trắc hoặc cẩm lai. Đầu các con nhạn ở vị trí đỡ các dây đàn thường được gắn thêm xương hoặc đồng.
Trục đàn: Ở đầu hẹp đàn Tranh có các trục đàn để lên dây, trục đàn đặt trên mặt đàn còn để giữ một đầu dây xếp hàng chéo do độ ngắn dài của dây, tạo âm thanh cao thấp, trục đàn tốt thường được làm bằng gỗ Trắc, gôc Cẩm Lai hoặc gỗ gụ.
Dây đàn: Dây đàn bằng thép hoặc inox với các cỡ dây khác nhau để phù hợp với tầm âm của cây đàn.

Móng gảy: Ðàn Tranh đàn bằng móng gảy thường được làm bằng đồi mồi, Inox.


                                         Trần Hoàng Sưu tầm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét