Thứ Hai, 6 tháng 3, 2017

GUITAR PHÍM LÕM



Guitar phím lõm là loại nhạc cụ độc đáo của Việt Nam được biến cải dựa trên cây đàn ghi-ta (guitare espagnole moderne) của phương Tây trong quá trình phát triển của loại hình âm nhạc tài tử và cải lương ở Nam bộ. Nó còn có tên là Lục huyền cầm hay Ghi-ta Việt Nam, Ghi-ta vọng cổ.
Guitar phím lõm là cả một quá trình thử nghiệm, chọn lọc với nhiều nhạc cụ phương Tây khác nhau, điều chỉnh, cải biến để phù hợp với loại hình âm nhạc đòi hỏi những khả năng biểu hiện tình cảm, kỹ thuật đa dạng và phong phú. Đầu tiên đàn guitar phím lõm ra đời được mang tên là "lục huyền cầm" tuy nó chỉ có 4 dây. Cho đến ngày nay, nó được sử dụng phổ biến với hệ thống gồm 5 dây, đó là cả một quá trình với sự đóng góp của nhiều nghệ nhân danh tiếng trong làng nhạc tài tử cải lương.
Về mặt cấu tạo, từ cây đàn ghi-ta 6 dây ban đầu, người ta khoét các phím lõm xuống chừng 1 cm, hình bán nguyệt nhằm tạo ra âm thanh khác biệt, tạo độ ngân rung đặc trưng của ca vọng cổ.
Thùng đàn: hình tròn dẹt, đường kính 36 cm.
Mặt đàn: mặt đàn phẳng, làm bằng gỗ thông nhẹ, xốp, thành đàn thấp khoảng 8,5 cm làm bằng gỗ cứng có lỗ thoát âm, trên mặt đàn có một bộ phận để mắc dây đàn và một ngựa đàn.
Dọc đàn (cần đàn): dài 62 cm làm bằng gỗ cứng, thường dùng gỗ trắc, có tất cả 19 phím bằng kim loại (đồng thau) gắn đàn trên cần đàn: 12 phím đàn gắn đàn trên dọc (cần đàn) và 7 phím gắn trên cần và mặt đàn. Trên dọc (cần đàn), khoảng cách giữa hai ô phím, người ta khoét lỗ sâu xuống cần đàn, để tạo ra hiệu quả âm thanh đặc biệt, như nhấn, rung... thể hiện chữ nhạc dân tộc Việt Nam rõ nét và sâu sắc hơn.
Dây đàn: là loại dây kim khí thường là inox, chạy qua ngựa đàn, kéo lên cần đàn, trước khi xỏ vào trục dây được luồn qua một miếng xương đặt trên mặt cần đàn. Qua quá trình hình thành và phát triển, có nhiều hệ thống lên dây như:Dây Xề Bóp: Sòl, Ðô, Sol, Rế;Dây Sài Gòn: (Rề), Sol, Rê, Sol, Rế; Dây Rạch Giá: (Rề), Sol, Rê, Sol, La, Mí; Dây Tứ Nguyệt: (Rề), La, Rê, La, Rế;Dây Lai: (Sol), Rê, Sol, Rê, La, Rế;Dây Ngân Giang: Sòl, Rê, Sol, Si, Rế, hoặc Rề, La, Rê, Fa#, La;Dây bán Ngân Giang: Rê, Sol, Rê, Si, Rế
Hiện nay hệ thống dây Lai: Rê, Sol, Rê, La, Rế (có khi 6 dây: Sol, Rê, Sol, Rê, La, Rế) được coi là phổ biến nhất được sử dụng để biểu diễn, giảng dạy và học tập, đặc biệt hai dây đàn số 1 và số 2 có tiết diện nhỏ hơn dây Ghi-Ta bình thường để tạo cho âm sắc mềm mại và thanh thoát hơn.
Bộ phận lên dây: có 6 trục để lên dây, mỗi trục xuyên ngang thành đàn (ở đầu đàn) để mắc dây và lên dây.
Miếng gảy đàn: nghệ nhân gảy đàn bằng miếng nhựa với những ngón gảy, hất, vê, khảy, móc...
Về kỹ thuật biểu diễn, khi dùng chơi nhạc cổ, guitar phím lõm không dùng dây 6. Dây đàn được lên theo âm giai ngũ cung (pentatonic).


Tư thế đàn:
Ngồi thấp: xếp chân trên chiếu
Ngồi thẳng trên ghế, đàn được đặt ngang tầm tay:
Kỹ thuật tay trái: có ngón láy, ngón luyến, ngón bật, ngón mổ, ngón bịt và đặc biệt là ngón vuốt vì dọc (cần đàn). Guitar Việt Nam có bàn phím lõm, ngón này thường kết hợp với ngón vê của tay phải.
Ngón rung ngang: còn gọi là rung gân trong, là cách rung theo chiều ngang của dây, đối với những âm rung có tính chất bắt buộc và thường xuyên như Xự và Cống trong Hơi Bắc, Xang và Oan trong Hơi Nam thì có thể đặt dấu rung ở hoá biểu nơi thích hợp trên dòng hoặc khe nhạc. Tùy theo trình độ và thói quen, người ta có thể xử lý chữ nhạc theo mức độ khác nhau: rung nhanh và đều đặn gọi là rung mượt, rung nhanh và gợn sóng gọi là rung hột.
Ngón nhấn: là dùng ngón bấm tay trái nhấn dây xuống để tạo hiệu quả tiếng đàn cao hơn cung bậc bình thường, ký hiệu dấu nhấn ghi trên nốt.
Ngón nhấn luyến: là ngón nhấn một âm này đến một hoặc nhiều âm khác có cao độ cao hoặc thấp hơn âm khởi đầu, tất cả đều thực hiện trên cùng một ô phím. Hiệu quả nhấn luyến tạo cho âm thanh nghe liền lạc, mềm mại và mang đậm tính dân tộc.
Ngón nhấn rung: là kết hợp giữa ngón nhấn và rung, ví dụ như Xang và Oan trong Hơi Nam.
Ngón nhấn mượn cung: là tạo một âm nào đó bằng cách nhấn trước trên cung phím của một bậc âm trước nó, hiệu quả âm thanh nghe tình cảm hơn so với bấm ngay trên cung phím chính của âm này.
Ngón nhấn láy: là kết hợp giữa nhấn và láy, tùy theo hình thức láy nó có thể là nhấn láy dài, nhấn láy ngắn, nhấn láy vỗ, nhấn láy chùm…
Ngón vuốt: là dùng ngón tay trái vuốt đi lên hay đi xuống theo chiều dọc của dây trong khi tay phải chỉ gảy một lần hay kết hợp với ngón vê hay ngón phi.
Bồi âm: là cách sử dụng ngón tay trái chạm nhẹ vào giữa các phím ở các ngăn V, VII, IX, XII, XVII trong khi tay phải gảy dây đó ở sát ngựa đàn. Cũng có thể dùng đầu ngón trỏ của tay mặt chạm vào dây cũng trên các ngăn trên trong khi ngón áp út của tay mặt gảy ngay dây đó. Âm bồi có hiệu quả nghe như tiếng chuông.

                                                                         Hoàng Trần sưu tầm

Thứ Ba, 21 tháng 2, 2017



CHƯƠNG TRÌNH “GIAI ĐIỆU TRI ÂM”

CLB GIAI ĐIỆU PHƯƠNG NAM THĂM VÀ TẶNG QUÀ CHO NGHỆ SĨ Ở VIỆN DƯỠNG LÃO NGHỆ SĨ (QUẬN 8)


Ngày 18/2/2017, CLB Giai Điệu Phương Nam đã có buổi thăm và tặng quà cho các nghệ sĩ sống trong Viện Dưỡng lão Nghệ sĩ (Quận 8). Buổi thăm và tặng quà diễn ra trong không khí hết sức ấp cúng, và có sự tham gia của các thành viên CLB Giai Điệu Phương Nam, các tình nguyện viên, Ban quản lý Viện Dưỡng lão Nghệ sĩ, các nghệ sĩ và đại diện của Nhà Văn hóa Sinh viên.
Viện Dưỡng lão Nghệ sĩ hiện là mái nhà chung của 24 nghệ sĩ sinh sống, trong đó có nhiều nghệ sĩ nổi tiếng một thời trên các sân khấu cải lương, tuồng cổ như NSƯT Diệu Hiền, NSƯT Ngọc Hương, NS Thiên Kim, Mỵ Lan, Ngọc Đáng, Lệ Thẩm,… Có nhiều nghệ sĩ đã gắn bó với nơi này khá lâu như NS Thiên Kim (15 năm), NS Ngọc Đáng (10 năm).
Buổi thăm và tặng quà diễn ra với các hoạt động chủ yếu như dọn dẹp khuôn viên xung quanh viện dưỡng lão; dâng hương Tổ Nghiệp tại bàn thờ Tổ; trò chuyện, thăm hỏi sức khỏe, động viên các nghệ sĩ; giao lưu văn nghệ giữa các bạn thành viên CLB, tình nguyện viên và các nghệ sĩ; và trao các phần quà cho các nghệ sĩ.






Dọn dẹp khuôn viên Viện Dưỡng lão Nghệ sĩ. Ảnh: Hoàng Nguyên.





 Dâng hương Tổ Nghiệp tại bàn thờ Tổ. Ảnh: Hoàng Nguyên.





 Giao lưu văn nghệ giữa các bạn thành viên CLB, tình nguyện viên và các nghệ sĩ. Ảnh: Hoàng Nguyên.




 Trao quà cho các nghệ sĩ. Ảnh: Hoàng Nguyên.

                                     

Chụp hình lưu niệm giữa các thành viên, tình nguyện viên 
tham gia chương trình và các nghệ sĩ. Ảnh: Hoàng Nguyên.

Tâm sự với các bạn sinh viên, cô Diệu Hiền dặn dò: "Nếu tụi con yêu bộ môn này, hãy lấy nó làm nghề tay trái. Tụi con vẫn phải học thật tốt nghề của mình. Thời nay khác rồi, hồi đó mấy cô sống với nghề được, giờ tụi con khó lắm. Sân khấu còn mấy chỗ đâu. Yêu nó là mừng rồi". Đây vừa là lời tâm sự, vừa là lời dặn dò thế hệ tiếp nối luôn luôn giữ “lửa” cho bộ môn nghệ thuật truyền thống đặc trưng của dân tộc.

“Hôm nay khi đến đây được nghe các ông bà tâm sự về quãng đời làm nghệ thuật, chúng tôi mới hiểu rõ hơn về những giá trị tuyệt vời của đời người nghệ sĩ! Tất cả đã rưng rưng nước mắt khi nghe NSƯT Diệu Hiền giới thiệu về các ông bà và kể lại một thời vàng son. Không biết nói gì hơn! Chúng con xin âm thầm gửi đến các ông bà lời chúc sức khỏe và luôn vui vẻ hạnh phúc trong cuộc sống! Chúng con nguyện sẽ là những cánh chim mang nét đẹp của nền nghệ thuật sân khấu cải lương bay cao bay xa hơn, bảo tồn và phát huy bộ môn nghệ thuật dân tộc này để nó được trường tồn với thời gian!”_ Bạn Đặng Thành Nguyên, thành viên CLB chia sẽ.
Sau khi giao lưu văn nghệ, trò chuyện thăm hỏi các nghệ sĩ, các thành viên tiến hành tặng quà cho các nghệ sĩ bao gồm 24 phần quà và 10kg gạo. Phần quà này được trích từ nguồn quỹ CLB Giai Điệu Phương Nam và sự hỗ trợ từ Nhà Văn hóa Sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh.
                                                                                      Quốc Toản



Chủ Nhật, 5 tháng 2, 2017

Cải lương Hồ Quảng

Cải lương là một lối hát tuồng cách tân, được phát triển vào đầu thế kỉ 20 tại miền Nam Việt Nam, kết hợp giữa đối thoại bằng giọng bình thường với những lời ca theo những điệu truyền thống miền Nam, trong đó chủ yếu là vọng cổ.
Cải lương Hồ Quảng, hiện nay, để kỵ húy thì gọi là cải lương tuồng cổ, cũng là cải lương, nhưng tuồng tích dựa vào những tuồng cổ, mà thường là tuồng cổ Trung Hoa.
Theo mình, gọi cải lương Hồ Quảng là cải lương tuồng cổ chỉ là 1 cách tránh né của các đoàn Hồ Quảng. Không phải tuồng cải lương ”cổ trang” nào cũng là cải lương Hồ Quảng. Những tuồng như Áo cưới trước cổng chùa, Mùa thu trên Bạch Mã Sơn… hay thậm chí là Tiếng trống Mê Linh, Thái hậu Dương Vân Nga đều không phải là cải lương Hồ Quảng. Cùng là Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, nhưng nếu xem tuồng của NS Minh Vương, Thanh Kim Huệ thì sẽ hoàn toàn khác với version Hồ Quảng của NS Vũ Linh, Tài Linh.
Vì thế, cải lương nên chia thành 3 nhánh, cải lương xã hội, cải lương tuồng cổ (giả sử) và cải lương Hồ Quảng


Quá trình hình thành của Cải lương Hồ Quảng

Cải lương Hồ Quảng là một loại hình nghệ thuật phối hợp giữa ba nghệ thuật: cải lương, tuồng kịch Bắc Kinh và tuồng kịch Quảng Ðông. Cuối thập niên 1940 sang đầu thập niên 1950, những nghệ sĩ như Phùng Há, Cao Long Ngà (bà ngoại của NS Phượng Mai), Năm Phỉ (chị NS Bảy Nam) có dịp sang Quảng Ðông học hỏi “vũ đạo” của các nghệ sĩ tuồng kịch truyền thống ở đây. Các nghệ sĩ này khi về nước, đem áp dụng “vũ đạo” này trên sân khấu, đạt được nhiều thành công.
Giữa thập niên 1950 sang đầu thập niên 1960, các nghệ sĩ Khánh Hồng, Bảy Huỳnh và Minh Tơ lần mò vào Chợ Lớn, tìm đến những gánh hát người Hoa, mua lại một số trang phục sân khấu của họ. Những trang phục này rất rực rỡ, mặc vào, lên sân khấu là đào, kép nổi bật, làm cho sân khấu cũng rực rỡ theo. Những nghệ sĩ này cũng học hỏi từ các gánh hát người Hoa nhịp điệu trống, bắt nguồn từ cách diễn tuồng của phái Bắc Kinh. Tiếng trống rộn rã giúp cho buổi trình diễn thêm tưng bừng náo nhiệt. Tiếng trống còn có tác dụng thay đổi tâm tình khách xem trình diễn, tùy theo nhịp điệu nhanh, chậm, cách ngắt quãng của nó. Các nghệ sĩ cũng học một số cách hát theo điệu Quảng Ðông.
Trở về sân khấu Việt Nam, các nghệ sĩ Khánh Hồng, Bảy Huỳnh, Minh Tơ pha điệu hát Hồ Quảng vào các tuồng cải lương. Về sau, khi khán giả có vẻ chấp nhận, cải lương Hồ Quảng trở thành một bộ môn riêng, với nhịp trống, điệu hát và y trang Bắc Kinh, Quảng Ðông, phối hợp với cách hát cải lương và ca vọng cổ.
Những năm 1961, 1962, 1963, phim Đài Loan tràn ngập thị trường phim Việt Nam, khởi đầu là phim Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, một truyện tình sử lấy nước mắt của không biết bao nhiêu là khán giả Việt Nam. Nhạc sĩ Đức Phú, em của nghệ sĩ Minh Tơ, đoàn hát Vĩnh Xuân Bầu Thắng lấy nhạc Đài Loan trong phim Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, viết lời Việt, dùng trong tuồng Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài do anh sáng tác và thủ diễn vai chánh, hát với nữ nghệ sĩ Bo Bo Hoàng trong vai Chúc Anh Đài. Gánh hát Vĩnh Xuân Ban – Bầu Thắng hát tuồng Lương Sơn Bá có ca nhạc Đài Loan như trong phim nên thu hút khán giả với một con số kỷ lục.
Đoàn hát Thanh Bình – Kim Mai 1 (sau là đoàn Huỳnh Long) có hai nhạc sĩ Tàu là Há Thầu và chú Long cũng ghi âm nhạc Đài Loan dùng trong tuồng hát cho đoàn Huỳnh Long. Há Thầu đặt tên các bài nhạc đó là Hoàng Mai 5, Hoàng Mai 15, Ly Hận, Chiêu Quân Hội…
Các đoàn hát cải lương Hồ Quảng thu hút khán giả nghẹt rạp, các hãng dĩa cũng thu thanh và phát hành dĩa hát Hồ quảng, đài truyền hình Saigon cũng có những Ban hát Hồ Quảng như Ban Khánh Hồng, Ban Minh Tơ, Ban Huỳnh Long, Ban Vân Kiều, tất cả tạo thành một phong trào hát cải lương Hồ Quảng ngày một phát triển và được khán giả ưa thích.
Cải lương Hồ Quảng có nhiều ưu thế trên sân khấu. Về y trang rực rỡ và cách diễn bằng “biểu tượng” thì không thua gì hát bội, nhưng hát bội lại khó nghe, khó hiểu, trong khi đào kép trong cải lương Hồ Quảng thì nói ít, diễn nhiều, khi hát thì hát theo lối vọng cổ và một số làn điệu của cải lương rất dễ nghe, có hát theo điệu Quảng Ðông thì điệu ấy nghe cũng lọt tai. Ðặc biệt, cải lương Hồ Quảng lại có “vũ đạo,” tức là cách đưa tay, đá chân theo nhịp điệu như múa, mà là múa võ, nên gây hào hứng trên sân khấu.



Cải lương Hồ Quảng vẫn mang bản sắc Việt

Ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc đến văn hóa Việt Nam là điều không cần phải bàn cải. Tuy nhiên, cần phải ghi nhận rằng, là khi các truyện, tích của Trung Quốc được các văn sĩ, thi sĩ, nghệ sĩ Việt Nam thuật lại hay diễn lại, nó mang tính chất nghệ thuật rất độc đáo của Việt Nam, mà truyện, tích khi ấy chỉ là cái cơ hội để người nghệ sĩ Việt Nam diễn tả cái hay, cái đẹp, cái tuyệt diệu của ngôn ngữ, ý tưởng, tâm tình Việt Nam. Nguyễn Du kể chuyện đời một cô tên Vương Thúy Kiều ở Trung Quốc, mà người đọc luôn luôn có cảm giác cô là người Việt Nam. Những nhân vật phụ còn nổi tiếng hơn, Hoạn Thư, Sở Khanh, Mã Giám Sinh, Bùi Kiệm… Chuyện này cũng xảy ra (tuy với mức độ thấp hơn) nơi các nghệ sĩ Việt Nam diễn tuồng cải lương Hồ Quảng.
Tóm lại, Cải lương Hồ Quảng là một bộ môn nghệ thuật sân khấu Việt Nam có một nguồn gốc khác phức tạp: cải lương, hát bội, sân khấu Bắc Kinh, sân khấu Quảng Ðông, nhạc Việt Nam truyền thống, nhạc Ðài Loan, võ thuật Bắc Phái… Tuy nhiên, qua cách trình diễn của các nghệ sĩ Việt Nam, tất cả các loại hình nghệ thuật này phối hợp nhuần nhuyễn với nhau, tạo thành một sắc thái riêng. Khán giả thưởng thức một vở tuồng diễn theo lối cải lương Hồ Quảng nhìn thấy ngay là nó rất Việt Nam, không lẫn với ca kịch Trung Hoa được. Ðó là cái tài của người nghệ sĩ, mà đó cũng là cái đặc thù của văn hóa Việt Nam, đón nhận cái của người, nhưng biến hóa nó, thăng tiến nó để nó hay hơn, đẹp hơn mà lại có tính chất Việt Nam.

Sưu tầm từ trang http://hoalongphongvan.wordpress.com



MỘT SỐ ĐIỆU HÒ QUẢNG NỔI TIẾNG

1.    Bạch Mai khúc
Chàng vui đời trai, thiếp tương lai lịm dần từ đây. Cầu mong người xưa như ánh dương quang tạo ngàn vầng hồng. Ngày tàn binh biến, nhạc hùng ca, rợp trời hoa, ngàn lời vui, chỉ riêng em lệ rơi.
Làm sao dâng em nỗi lòng, đừng phai tan má hồng. Hoàng huynh tâm ghi chữ đồng, Học Nhi dáng kiêu sa, mong trao em duyên thắm mà từ lâu, người thầm mơ, vẹn hồn thơ...lý đâu ta đành sao?
Gào vang trời cao thấu cho tôi muôn vạn dòng sầu, hồng nhan nghiệt oan vương kiếp đa mang vương lụy tình đầu. Trường sa gió lốc vùi đời trai không còn ngày mai gọi tình ai, tái lai xin đừng mong.
(trích Rượu tình)

2.    Trường khúc
Vì hiềm thù riêng, lòng người tà tâm, còn nhiều hờn căm, mới gây sai lầm. Đời con oan thác, ta thề không tha ác gian.
Quỳ giữa kim trào, van xin thánh minh hãy nên thương tình truy tìm kẻ gian.
Thương cho đời Dương lang, kiên tâm gìn trung can, nhưng nay lìa dương gian, thiên nhan ngài xót thương đem tà gian pháp trừ phân thây.
Thiên Ba lầu xưa nay, luôn luôn gìn tâm ngay, ai gây bày chua cay. Câu nhân tình đổi thay cho hùng anh vướng điều không may.
Cầu khẩn với thiên nhan nên xét cho tôi trung thần... ...Chồng thiếp đã hi sinh nơi đất Phiên cam chôn mình. Quá đớn đau xót dạ... ...Vì ai chia cách nhau... Hoàng gia là minh chúa, dùm truy ra kẻ gian.
Ngày trước đã lỡ duyên nên oán xưa luôn ghi lòng...gào thét với thiên nhan ban đức ân nơi cung rồng. Cho oán hờn tiêu tan...mới siêu hồn oan.
(trích Dương Gia Tướng)

3.    Tống liên chi
Đừng nên tranh hùng nữa... Quang Minh đỉnh vui giao tình... Gắng sức chung lòng, xua đuổi quân Nguyên tràn sang.
Người từ đâu đến... tài gì cản ngăn.
Cần lui giữ thân bình an.
Tăng Ngưu vốn tên tôi... Lòng muốn khuyên vài câu.
Đừng liều nguy vong... Làm sao thắng bao nhiêu hùng anh.
Dù tan thây nào tiếc... Yên tâm cháu thơ tranh tài... Hỡi các anh hùng, Minh Giáo chính ta chờ đây.
Tài vì khiêu khích, mị tà khoe khoang, chờ ta với mi tranh hùng nhau.
Xin Sư Thái quang lâm.. Nào dám so tài nhau.
Nhiều lời vô ích... Này xem Ỷ Thiên gươm dọc ngang...
(trích Đồ Long Ỷ Thiên Kiếm)

4.    Cánh nhạn minh tâm
Thầm trách sao khanh dối vua tà tâm, cung son đượm thảm, lỡ làng từ đây. Hết mong chi sum vầy, Liễu nương ơi sao đành. Lòng yêu khanh chẳng phai, đành gieo bao đắng cay. Chán chê dáng hoa, thướt tha thốt ra ước mơ cùng ta ngàn câu tha thiết, mà nay quên bỏ sao, đời vương gia xót đau. Ôi nuốt lệ nghẹn ngào, ân tình lìa xa.
Gào thét ơn trên chứng minh lòng son, phong ba trào dâng phủ vào đời con. Nỗi oan kêu thấu trời, nói… nói không nên lời.
Phiền Bao khanh hãy xem, hoàng cung nay tối đen. Liễu nương dã tâm, đổi thay trúc mai nỡ gieo đắng cay hoàng gia đau đớn. Nhờ Bao khanh xử phân, người quên đi nghĩa nhân.
Quân… hãy đưa Tứ Hùng đến liền cung son.
(trích Vụ án Hồng Phi)

5.    Liên hoàn kế/ trường khúc đuôi
Nguyện cầu…ngày vững an, lo ngai vàng âu ca chứa chang. Thôi hết rồi tơ loan trái ngang, tên Huyền Sương cách xa dương gian, ngàn thuở mang ân tình. Thương trẻ khờ côi cút tháng năm cung đình, lẻ loi một mình, mẹ hiền ở đâu.
Thương nàng… đành thảm tai, ai đổi dùm cho ta bửu ngai, xin cứu dùm nàng chiêu dương đắng cay. Sao trời cao chẳng thương uyên ương, đành rẽ duyên can thường. Ta kêu rào bi thiết gió giông ba đào, phủ giăng bao trùm, đôi mình có nhau.
Đừng đừng quân vương nên nén sầu bi thương, chớ xem thường ngôi báo cung đường, dằn lòng suy nghĩ tận tường, muôn nhà vui no ấm chỉ do hoàng vương.
Lệ thắm quân vương, ghi dấu đoạn tình trường, dương trần tan nát tình lứa đôi kiếp sau tương phùng.. ơ a ơ à.........à
(trích Hoàng hậu không đầu)

6.    Hoàng mai trả ngọc
ah... tui chẳng biết gì mà phải nói …rượu độc này nào phải của tui ..ah..thôi thôi thôi tui biết rồi mà ..bà..bà, (hát)…
Tâm ghen ghét cao dài hồng phước bang, sắc quý phi diễm kiều chẳng ai sánh bằng ..được nhà vua ái yêu chân thật chẳng hai lòng..nên bà ghen..muốn giết tui rồi bỏ thuốc trong tửu đào.
Tâm gian trá lọc lừa lời hiểm sâu, đổ oán ai gia ganh tỵ giết mi đoạt tình, khai nguồn cơ trắng đen mưu sâu độc kế thâm ai bài ...còn dối gian nát..hồn...tan..thây ..nàng..mau ..khai..hết ..đi…
Ngươi như sói như lang rừng sâu…tánh hung hăng toan chờ hại người...đừng hại ta nát cánh đào mai…quân vuông ơi..cứu thiếp thần..chung nương lòng ác..toan giết thần...bệ hạ ơi cứu thiếp thần..chung vô diệm muốn thuốc thần thiếp nè ...
Ác phụ đa ngôn ..khẩu xà hổ tánh ..hại nhân nhân hại ...ta sẽ cho mi nếm mùi độc tửu của mi ....
Bệ hạ ơi cứu thần thiếp ...ah....
Uống....
Ahhhhhh......chết tui rồi ....ụa....(hát) duyên kim cải hết rồi chờ kiếp sau, thiếp mới mong sum hiệp trúc mai hòa ...ôi quặng đau tứ chi gan ruột thắt như bào ....trời..như..chuyển xoay quay cuồng không gian ...nghẹn hơi ...máu tuôn ....ụa....b.ệ...h.ạ....thiếp x..a....thế gian ....ụa..
  (trích Chung VôDiệm)

7.    Hoàng mai long thanh
Chim rừng líu lo, cảnh thơ mộng quá, đôi lời thăm hỏi... đường... đi đến ngôi... trường. Mắt nhìn hai lối, khó mong thông đường, xin người chỉ giúp dùm cho.... xin chỉ dùm cho.
Đây miền nam, núi chập trùng, mà người đời đặt tên là Nam Sơn, nhiều lối đi lên, đến ngôi trường, ngôi trường gần đây cách hai đèo, trường ta là nơi hướng đi sơn đèo.
Đa tạ.... Vui thay, thích thay, tuổi xuân thì, nấu xử sôi kinh, chí ta chung cùng, xin cho biết tên, mình cùng quen nhau... buổi ban đầu, suối hát thông reo một lòng.. đều một lòng... rằng mong biết tên huynh đài.
Nhà có dư hàng trăm tên hầu, miền Triết Giang là quê, còn tuổi xuân là trăng tròn, tôi tánh danh là Chúc Anh Đài.
Cha tôi mất đi, tuổi còn ấu thơ, mẹ già dưỡng nuôi, ngày qua ngày qua hà ha ha hà. Tuổi mộng mơ vừa đúng trăng tròn trăng hà hà há ha hà. Chuyện tình quê nhà qua ngày đủ ăn. … Tôi tên Lương Sơn Bá.
(trích Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài)

8.    Xung trận
Quân ta hò reo chiến trường xa, lòng không quản ngại chi lửa binh, tai nghe tiếng kêu gọi hồn nước, thân trai bốn phương xin hiến đời cho núi sông.
Căm gan thù quân Tống tràn sang, lòng ta uất hờn sôi khí thiên, ta yêu nước non hơn cuộc sống, làm trai hiến dâng thân xác mình cho núi sông.
Thề nguyệnlòng chung sát vaichiến, xông pha ngàn lửa hồng.
Tim yêu nước ta, làm trai sao cho đáng trai.
Nước non hỡi, xin liều thân… (Trốc mã)…
Sử lưu truyền quân ta ngày xưa, thắng quân thù chiến công lừng danh. Chiến ta chiến Bạch Đằng Giang, kia xác quân thù ngàn thây phơi. Xin góp thân theo đường tiền nhân Ngô Quyền diệt trừ Hán ban, xin góp thân theo đường tiền nhân Ngô Quyền ..............................................DIỆT XÂM LĂNG.
(trích Câu thơ yên ngựa)

9.    Kê toa
Dân tôi sống chuyên nghề nông dân, đồng ruộng tốt tươi lúa đơm hoa, tựa hồ như á là cõi tiên, đêm về yên vui khắp buôn làng, không có trộm cướp côn đồ.
Vui chia sớt chung cùng một niềm vui, cùng chia sớt nhau những u buồn, vai cùng chen vai lo giữ gìn nước non, vợ chồng bên nhau đến trọn đời, khi thác nguyện xuống chung mồ.
Muôn lòng Triệu dân đồng thờ vua vẫn một lòng, sa trường liều thân chí kiêu hùng, trường sa thề tiến không lùi.
Quê tôi nắng đẹp lại mây xinh, ngày lại tháng qua gió mưa hòa, cây lành ngọt sai bốn mùa tốt tươi, ân trời Triệu bang có vua hiền, dân thích người mến muôn đời.
Vua Thành Than đã soi đường ta đi, đời sau gắng công quyết theo người, thiên hòa dân an mấy lời thánh nhân, để ngàn đời sau đến muôn đời phải nhớ và nhớ muôn đời.
Mong rằng nơi nơi người trị dân chớ quên lời, theo theo lời Thành Than chúng dân nhờ ân đức nhuần ca thái an muôn đời.
(trích Xa Phu Đi Xứ)

10.   Thúy Kiều – Từ Hải
(Bệ Hạ) Xin thánh quân theo thần dân dời gót. Long bào nên cởi rồi trao cho chàng. Tìm đường đào vong thoát nơi hang hùm, trở về triều ca Thánh Quân an toàn, đừng để lũ sói lang xúc phạm thân rồng. 
Ta chẳng lo bởi vì ta là Hạng Võ. Lũ giặc nghe tên là phải rụng rời. Ngàn đời Hạng Vương Sở bang oai hùng, lục thần gồm thâu tám trăm chư hầu, thì giặc cỏ kia đâu có ăn thua gì.
Vì ta để lụy phiền nên hai khanh vươn lấy tai nạn. Một mai ta thoát nguy, nơi vương triều ban tước công hầu. Bằng như thác chín sông, xin kiếp sau đền ơn....
(trích Tỉnh giấc liêu trai)


                                                                          NGUYÊN TÀI TỬ (sưu tầm và biên soạn)



Thứ Bảy, 17 tháng 12, 2016

ĐÀN NHỊ (ĐÀN CÒ)


Đàn Nhị/Cò là nhạc cụ thuộc bộ dây có cung vĩ, do đàn có 2 dây nên gọi là Đàn Nhị (). Đàn xuất hiện ở Việt Nam khoảng thế kỷ 10. Ngoài người Kinh, nhiều dân tộc thiểu số Việt Nam cũng sử dụng rộng rãi nhạc cụ này như Tày, Nùng, Thái, Mường, Dao, Giáy, H’Mông v.v.
Theo tài liệu khảo cổ đã phát hiện ở chùa Vạn Phúc (Phật Tích – Thanh Sơn – Hà Bắc) có khắc chạm một dàn nhạc ở bệ đá kê chân cột chùa Phật Tích, với những nhạc cụ có xuất xứ từ ấn Độ và Trung Hoa. Dàn nhạc đó gồm 10 nhạc công ăn mặc giống như người Chăm và chơi các loại nhạc cụ trong đó có một nhạc cụ gần giống như Đàn Hồ 2 dây và là tiền thân của cây Đàn Nhị bây giờ.Căn cứ vào đó người ta đã ước đoán Đàn Nhị có thể du nhập vào Việt Nam theo con đường của người Chăm và cũng có thể du nhập theo con đường Trung Hoa tùy theo từng thời gian địa điểm khác nhau.” (Theo lịch sử âm nhạc của giáo sư Trần Văn Khê và Văn Thương).
Tuy phổ biến tên gọi “Đàn Nhị”, nhiều dân tộc tại Việt Nam còn gọi đàn bằng các tên khác nhau. Người Kinh gọi là “Líu” (hay “Nhị Líu” để phân biệt với “Nhị Chính”), người Mường gọi là “Cò Ke”, người miền Nam gọi là “Đờn Cò”. Hình dáng, kích cỡ và nguyên liệu làm Đàn Nhị cũng khác nhau đôi chút tùy theo tộc người sử dụng nó.Người dân Nam Bộ gọi là "Đàn Cò" vì hình dáng giống như con cò, trục dây có đầu quặp xuống như mỏ cò, cần đàn như cổ cò, thân đàn như con cò, tiếng đàn nghe lảnh lót như tiếng cò. Trong các dàn nhạc phường bát âm, ngũ âm, nhã nhạc, chầu văn, sắc bùa, nhặc tài tử, cải lương dàn nhạc dân tộc tổng hợp, dân ca... đều có Đàn Cò.
Loại Đàn Nhị thông dụng hiện nay có những bộ phận chính như sau:
1. Bát nhị (còn gọi là ống nhị): là bộ phận tăng âm (bầu vang) rỗng ruột, hình hoa muống, làm bằng gỗ cứng. Bát nhị có 2 đầu, đầu này bịt da rắn hay kỳ đà, còn đầu kia xòe ra không bịt gì cả. Ngựa đàn nằm ở khoảng giữa mặt da.
2. Dọc nhị (còn gọi là cần nhị, cán nhị): dáng thẳng đứng, đầu hơi ngả về phía sau, gốc cắm xuyên qua lưng bát nhị, gần phía mặt da.
3. Trục dây: trục trên và trục dưới đều gắn xuyên qua đầu dọc nhị nằm cùng hướng với bát nhị.
4. Dây nhị: Trước đây dây đàn được làm bằng sợi tơ se, ngày nay làm bằng nilon hoặc kim loại. Dây kim loại cho âm thanh chuẩn hơn nhưng không ngọt ngào bằng dây tơ hay dây nilon. Dây đàn chỉnh theo quãng 4 đúng, quãng 5 đúng, quãng 7 thứ… nhưng phổ biến nhất là quãng 5 đúng.
5. Cử nhị (hay Khuyết nhị): là một sợi dây tơ se neo 2 dây đàn vào gần sát dọc nhị, nơi dưới hai trục dây. Có khi cử nhị là một khung áo buộc gần sát dọc nhị, hai dây đàn xỏ qua hai lỗ khung này. Cử nhị là bộ phận để điều chỉnh cao độ âm thanh. Nếu kéo cử nhị xuống, 2 dây đàn sẽ ngắt quãng hơn, tạo ra âm thanh cao hơn. Nếu đẩy cử nhị lên khi đàn 2 dây sẽ phát ra âm thanh trầm hơn vì quãng dây dài hơn. Tuy nhiên để lên dây đàn các nghệ nhân còn vặn trục dây nữa.
6. Cung vĩ: làm bằng cành tre, cành lớp hay gỗ có mắc lông đuôi ngựa. Những lông đuôi ngựa nằm giữa hai dây đàn để kéo đẩy, cọ xát vào dây đàn tạo ra âm thanh. Do những lông đuôi ngựa kẹt hai dây đàn nên ta không thể tách rời cung vĩ khỏi thân đàn.
Đàn Nhị có âm vực rộng hơn 2 quãng tám, âm thanh trong sáng, rõ ràng, mềm mại gần với giọng hát cao (giọng kim). Muốn thay đổi âm sắc hoặc giảm độ vang các nghệ nhân dùng đầu gối trái bịt một phần miệng loa xòe của bát nhị (khi ngồi trên ghế kéo đàn) hay dùng ngón chân cái chạm vào da của bát nhị (khi ngồi trên phản kéo đàn, trên chiếu). Nhờ những cách này âm thanh sẽ xa vẳng, mơ hồ, tối tăm và lạnh lẽo diễn tả tâm trạng thầm kín, buồn phiền…



Đàn Nhị giữ vai trò chủ đạo trong Hát Xẩm, là thành viên trong nhạc phường bát âm, dàn nhã nhạc, ban nhạc chầu văn, tài tử và dàn nhạc tổng hợp. Ngày nay thỉnh thoảng nó xuất hiện cả trong dàn nhạc pop, rock hiện đại để tăng màu sắc trong cách phối âm.
Kỹ thuật đàn khá phong phú, bao gồm từ ngón vuốt, ngón nhấn, ngón láy, ngón chuyền đến cung võ liền, cung vĩ ngắt, cung vĩ rời và cung vĩ rung, v.v.

                                                                                                      Hoàng Trần sưu tầm