ĐÀN NHỊ (ĐÀN CÒ)
Đàn Nhị/Cò là nhạc cụ thuộc bộ dây
có cung vĩ, do đàn có 2 dây nên gọi là Đàn Nhị (二). Đàn xuất hiện ở Việt Nam khoảng
thế kỷ 10. Ngoài người Kinh, nhiều dân tộc thiểu số Việt Nam cũng sử dụng rộng
rãi nhạc cụ này như Tày, Nùng, Thái, Mường, Dao, Giáy, H’Mông v.v.
“Theo tài liệu
khảo cổ đã phát hiện ở chùa Vạn Phúc (Phật Tích – Thanh Sơn – Hà Bắc) có khắc
chạm một dàn nhạc ở bệ đá kê chân cột chùa Phật Tích, với những nhạc cụ có xuất
xứ từ ấn Độ và Trung Hoa. Dàn nhạc đó gồm 10 nhạc công ăn mặc giống như người
Chăm và chơi các loại nhạc cụ trong đó có một nhạc cụ gần giống như Đàn Hồ 2
dây và là tiền thân của cây Đàn Nhị bây giờ.Căn cứ vào đó người ta đã ước đoán
Đàn Nhị có thể du nhập vào Việt Nam theo con đường của người Chăm và cũng có thể
du nhập theo con đường Trung Hoa tùy theo từng thời gian địa điểm khác nhau.”
(Theo lịch sử âm nhạc của giáo sư Trần Văn Khê và Văn Thương).
Tuy phổ biến tên gọi “Đàn Nhị”, nhiều
dân tộc tại Việt Nam còn gọi đàn bằng các tên khác nhau. Người Kinh gọi là
“Líu” (hay “Nhị Líu” để phân biệt với “Nhị Chính”), người Mường gọi là “Cò Ke”,
người miền Nam gọi là “Đờn Cò”. Hình dáng, kích cỡ và nguyên liệu làm Đàn Nhị
cũng khác nhau đôi chút tùy theo tộc người sử dụng nó.Người dân Nam Bộ gọi là
"Đàn Cò" vì hình dáng giống như con cò, trục dây có đầu quặp xuống
như mỏ cò, cần đàn như cổ cò, thân đàn như con cò, tiếng đàn nghe lảnh lót như
tiếng cò. Trong các dàn nhạc phường bát âm, ngũ âm, nhã nhạc, chầu văn, sắc
bùa, nhặc tài tử, cải lương dàn nhạc dân tộc tổng hợp, dân ca... đều có Đàn Cò.
Loại Đàn Nhị thông dụng hiện nay có
những bộ phận chính như sau:
1. Bát nhị (còn
gọi là ống nhị): là bộ phận tăng âm (bầu vang) rỗng ruột, hình hoa muống, làm bằng
gỗ cứng. Bát nhị có 2 đầu, đầu này bịt da rắn hay kỳ đà, còn đầu kia xòe ra
không bịt gì cả. Ngựa đàn nằm ở khoảng giữa mặt da.
2. Dọc nhị (còn
gọi là cần nhị, cán nhị): dáng thẳng đứng, đầu hơi ngả về phía sau, gốc cắm
xuyên qua lưng bát nhị, gần phía mặt da.
3. Trục dây: trục
trên và trục dưới đều gắn xuyên qua đầu dọc nhị nằm cùng hướng với bát nhị.
4. Dây nhị: Trước
đây dây đàn được làm bằng sợi tơ se, ngày nay làm bằng nilon hoặc kim loại. Dây
kim loại cho âm thanh chuẩn hơn nhưng không ngọt ngào bằng dây tơ hay dây
nilon. Dây đàn chỉnh theo quãng 4 đúng, quãng 5 đúng, quãng 7 thứ… nhưng phổ biến
nhất là quãng 5 đúng.
5. Cử nhị (hay Khuyết
nhị): là một sợi dây tơ se neo 2 dây đàn vào gần sát dọc nhị, nơi dưới hai
trục dây. Có khi cử nhị là một khung áo buộc gần sát dọc nhị, hai dây đàn xỏ
qua hai lỗ khung này. Cử nhị là bộ phận để điều chỉnh cao độ âm thanh. Nếu kéo
cử nhị xuống, 2 dây đàn sẽ ngắt quãng hơn, tạo ra âm thanh cao hơn. Nếu đẩy cử
nhị lên khi đàn 2 dây sẽ phát ra âm thanh trầm hơn vì quãng dây dài hơn. Tuy
nhiên để lên dây đàn các nghệ nhân còn vặn trục dây nữa.
6. Cung vĩ: làm bằng
cành tre, cành lớp hay gỗ có mắc lông đuôi ngựa. Những lông đuôi ngựa nằm giữa
hai dây đàn để kéo đẩy, cọ xát vào dây đàn tạo ra âm thanh. Do những lông đuôi
ngựa kẹt hai dây đàn nên ta không thể tách rời cung vĩ khỏi thân đàn.
Đàn Nhị có âm vực rộng hơn 2 quãng
tám, âm thanh trong sáng, rõ ràng, mềm mại gần với giọng hát cao (giọng kim).
Muốn thay đổi âm sắc hoặc giảm độ vang các nghệ nhân dùng đầu gối trái bịt một
phần miệng loa xòe của bát nhị (khi ngồi trên ghế kéo đàn) hay dùng ngón chân
cái chạm vào da của bát nhị (khi ngồi trên phản kéo đàn, trên chiếu). Nhờ những
cách này âm thanh sẽ xa vẳng, mơ hồ, tối tăm và lạnh lẽo diễn tả tâm trạng thầm
kín, buồn phiền…
Đàn Nhị giữ vai trò chủ đạo trong
Hát Xẩm, là thành viên trong nhạc phường bát âm, dàn nhã nhạc, ban nhạc chầu
văn, tài tử và dàn nhạc tổng hợp. Ngày nay thỉnh thoảng nó xuất hiện cả trong
dàn nhạc pop, rock hiện đại để tăng màu sắc trong cách phối âm.
Kỹ thuật đàn khá phong phú, bao gồm
từ ngón vuốt, ngón nhấn, ngón láy, ngón chuyền đến cung võ liền, cung vĩ ngắt,
cung vĩ rời và cung vĩ rung, v.v.
Hoàng Trần sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét